Friday, September 18, 2009

Nói tiếp cái ngu, cái cuồng tín mất dại của đàn ông cầm cờ vàng khè nghen bà con!

Vâng, hổng ai ngu hơn đàn ông cầm cờ dzàng khè cả. Lúc nào cũng tự cho mình là ngon, là ngầu, dân chống cộng đó nghen. Nhưng mà chống rất ngu, rất hèn hạ, hèn đến độ mất chủ Mỹ đã đành rồi, còn mất luôn nước và mất cả dân tộc mình luôn nghen.

Còn loại đàn ông nào trên thế gian nài ngu như thế chứ, ngu đến mất cả dân tộc luôn nghen. Có đó, có đàn ông Việt ngu cầm cờ dzàng khè đó, ngu và cuồng tín tôn giáo mất dại mất dân đó.

Theo Hiệp Định Geneva, việc chia đôi đất nước Việt Nam được ấn định rõ ràng chỉ là tạm thời cho đến khi tổ chức một cuộc bầu cử toàn quốc. Cuộc bầu cử dự trù sẽ diễn ra hai năm sau đó (1956), đủ thời gian cho các đảng phái chính trị củng cố và tự quảng bá mình trước cử tri trong nước. Đảng cộng sản của Hồ Chí Minh ở miền Bắc kiên trì chờ đợi, trong khi đó tại miền Nam, CIA Mỹ hậu thuẫn Ngô Đình Diệm, tín đồ Công giáo; họ tin tưởng ông sẽ là một con bù nhìn hoàn hảo sẵn sàng đáp ứng mọi quyền lợi của người Mỹ.

Vậy là Phái bộ Quân sự Sài Gòn được thành lập, có thể coi như một tổ chức cố vấn. Tuy nhiên trên thực tế nó là một vỏ bọc của CIA, và một trong những nhân vật chính của tổ chức đó, Đại tá Edward Lansdale, chịu trách nhiệm lo liệu sao cho Ngô Đình Diệm được dân chúng nhìn dưới một ánh sáng tích cực. Nước Mỹ muốn rút Bảo Đại ra khỏi bàn cờ, nhưng trước khi làm được chuyện này, họ phải đối phó với những đối thủ chính trị của Ngô Đình Diệm.

Từng làm việc cho OSS (tiền thân của CIA), Lansdale là bậc thầy về chiến tranh tâm lý, Landsdale là người hai mặt: bề ngoài ông tỏ ra mềm mỏng, hùng biện, điềm đạm, nhưng bên trong ông là con người hành động hung hăng và là bậc thầy về những trò lừa dối, những thủ đoạn dơ bẩn. Đặt chân đến Việt Nam vào tháng 6.1954, Landsdale đã gây ra một bầu không khí chống cộng dữ dội bằng cách tung ra nhiều tin đồn thất thiệt rằng Hồng Quân Trung Quốc đã đốt cháy nhiều xóm làng người Việt. Ông ta cũng thuê các thầy bói người địa phương để họ phán với khách hàng rằng ông Hồ Chí Minh chỉ có thể mang lại chết chóc và điêu tàn cho đất nước. (Người Việt Nam vốn rất mê tín dị đoan; chuyện họ đi tới gặp thầy bói gần nhà cũng phổ biến như đi chợ vậy) Landsdale thậm chí còn phịa ra những tài liệu Việt Minh giả để khủng bố dân chúng [(Karnow, Stanley, Vietnam (Viking,1983)].

Sự hiên ngang, đầu óc tổ chức và trù liệu của Diệm đã đủ gây ấn tượng mạnh cho chính quyền Eisenhower, khẳng định một lần nữa Diệm là con bù nhìn thứ thiệt của họ. Landsdale thúc giục Diệm tổ chức bầu cử. Thoạt tiên Diệm tỏ ra hoang mang (vì là người Công giáo, ông không được đa số tín đồ Phật giáo biết tiếng), nhưng Landsdale hứa sẽ có nhửng biện pháp bảo đảm mà chỉ ông ta mới làm được. Quên dân chủ đi – tráo trở và gian lận hiệu quả hơn nhiều, mà trong chuyện này Landsdale rất tài giỏi. Ông ta đem hết các ngón nghề xảo quyệt ra để dàn dựng một cuộc bầu cử. Các thùng phiếu đã được dồn đầy phiếu sẵn. Cử tri bị cưỡng bức thậm chí bị đe doạ. Landsdale còn cho in hai loại phiếu khác nhau, đánh vào tâm lý mê tín dị đoan của dân chúng: phiếu bầu cho Diệm có màu đỏ (tượng trưng cho vận may) và phiếu bầu cho Bảo Đại màu xanh lục (tượng trưng cho điềm xấu). Cuối cùng, Diệm đắc cử với trên 90 phần trăm phiếu bầu, và tại nhiều quận huyện, ông còn nhận được nhiều phiếu hơn số cử tri ở đó [(Karnow)].
(Còn tiếp)

Vụ Ám Sát Ngô Đình Diệm Và J.F.Kennedy (Triangle of Death)

Tháng 7.2000
BRADLEY S.O’LEARY & L.R.SEYMOUR


Chế độ cuồng tín dã man VNCH bắt đầu từ đó, miền Nam Việt Nam mình trở thành xứ nô lệ tình dục, cái xứ khủng bố sát hại người hàng loạt, nhân dân cùng khổ mấy chục năm trời, tất cả đều bắt đầu vào cái ngày cái chính quyền nô lệ ngu ngốc cuồng tín tôn giáo VNCH này ra đời đó nghen.


Dân Nam mình bị chống đối đàn áp khủng khiếp, bị giết bị hãm hiếp và bị đối xử như súc vật là sự kiện lịch sử.

Tất cả cũng vì cái hiến pháp cuồng ác VNCH này mà thâu nghen.

Dưới đây trích lại một đoạn từ "Hiến pháp VNCH năm 1967".

ĐIỀU 4
1- Việt Nam Cộng Hòa chống lại chủ nghĩa cộng sản dưới mọi hình thức
2- Mọi hành vi nhằm mục đích tuyên truyền hay thực hiện chủ nghĩa cộng sản đều bị cấm chỉ


Hơn 3.8 triệu dân Việt Nam phải hy sinh, hàng triệu người dân bị tàn tật, bị đối xử như súc vật đó nghen bà con.

Nó cuồng tín tôn giáo man dại nên nó ngu, nó ác làm dân Việt Nam mình quá khổ nghen.

VNCH: Ngu, Cuồng Tín Mất Dại, Mất Nhân Tánh, Mất Nước và Mất Dân.

Mình đọc mình nói ra cái ngu cái mất dại của thèng đàn ông cầm cờ dzàng khè ở hải ngoại, đặc biệt nhất là đàn ông Việt di cư ở Úc, và ở Mỷ, vì họ chống cộng rất ngu dại và ngông cuồng mất dại lắm nghen. Thích thì chống thì chửi cha con gái mẹ cộng đồng, có lúc lên cơn ăn giựt thì mất dại lắm à nghen. Luôn cả văn hóa và truyền thống của dân tộc Việt ngàn năm của mình cũng chống, các nghệ sĩ miền Nam mấy chục năm thân thiết đối dzới đồng hương miền Nam cũng bị chống, bị chửi rất mất dại nghen. Nói chung dân bán báo chống cộng ở Mỹ chống cộng không có dzăn hóa đó nghen.

“Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo hoá ban cho họ một số quyền bất khả nhượng”
- HỒ CHÍ MINH, 1945 -

Thực sự là có nhiều cuộc chiến tranh Việt Nam, và nếu từng có một nền văn minh nào đã sớm nếm trải xung đột bạo lực, thì đó là văn minh Việt Nam. Chiến tranh là một phần của cuộc sống cứ như việc sinh ra và chết đi vậy. Xuất xứ của người Việt có lẽ là ở gần Đồng bằng Sông Hồng, ngày nay gọi là miền bắc của quốc gia này, cách đây khoảng ba ngàn năm.

Sự cố kết của nền văn hoá nguyên thuỷ của họ, theo nhiều nhà nhân chủng học, có thể nhận dạng được qua nghệ thuật sơ khai, tục xâm mình, và thói quen ăn trầu (một chất kích thích như cà phê), đến nay vẫn còn và để lại những vết ố trên răng. Tự điển Encyclopedia Britanica nêu rõ:


“Mặc dù văn minh Trung Quốc về sau trở thành một ảnh hưởng chính, nhưng việc người Trung Quốc đã không đồng hoá được người Việt Nam đã cho thấy những yếu tố mạnh mẽ của văn hoá bản địa xác thực đã xuất hiện ở thung lũng Sông Hồng từ rất lâu trước khi Trung Quốc thiết lập nền đô hộ một ngàn năm của họ ở Việt Nam”.

Sự yêu chuộng tinh thần Việt Nam đích thực đã bắt đầu như thế. Dù bị đàn áp nặng nề tới đâu, họ không bao giờ thôi chiến đấu chống lại những kẻ áp bức, họ không bao giờ đầu hàng. Gia đình và văn hoá của họ là những ưu tiên hàng đầu, và ngay cả khi bị người Trung Quốc cai trị hà khắc, họ vẫn trui rèn kỹ năng đề kháng của mình. Chính những kỹ năng này sẽ được mài sắc thêm mãi cho đến khi họ giành được độc lập hoàn toàn hai ngàn năm sau đó. Họ không bao giờ đầu hàng.

Vào cuối những năm 1850, một thế lực đàn áp mới xuất hiện. Nước Pháp, với vũ khí tối tân và chiến lược quân sự tốt hơn, đã tuyên bố quyền cai trị của mình trên quốc gia này, họ dùng tới danh Chúa Trời để tìm kiếm thương trường cực kỳ cần thiết ở nước ngoài. Nước Pháp đã mất mười sáu năm để áp đặt thành công quyền lực đế quốc lên những vùng đất mà họ gọi là thuộc địa Đông Dương, ngày nay là Việt Nam, Campuchia và Lào. Tuy nhiên, Việt Nam là nơi người Pháp cai trị cứng rắn nhất, và họ đã cố tình chia cắt quốc gia này thành những vùng thuộc địa tách rời nhằm làm tiêu tan tính bản sắc văn hoá của dân chúng. Những toàn quyền người Pháp tàn bạo đến đây để âu hoá nền văn hoá “man rợ” và khai thác những tài nguyên của vùng đất này – tất cả vì “Nước Pháp Toàn Cầu”. Nơi đây là món nợ của người da trắng : nạn cưỡng dâm, cướp bóc, nô dịch, làm việc tới chết để tìm cao su và ngà voi. Bất cứ nơi nào có sự phản kháng, quân Pháp liền được phái tới để “bình định”, để lại những mặt đường đẫm máu. Người dân địa phương nào không chết vì súng đạn sẽ bị đối xử như những kẻ phản bội và bị xử trảm nơi công cộng. Không có gì là thành kiến khi nói rằng người Pháp rất đáng chê trách trong việc đối xử với người “Đông Dương”. Người Pháp đã tự cho thấy họ là những kẻ tra tấn ghê tởm đối với một dân tộc chỉ muốn sống và được tự do như những dân tộc khác, nhưng rồi dân tộc đó chỉ được nhồi nhét giáo lý Công giáo và chết đói vì không đạt được những chỉ tiêu xuất khẩu qua Pháp.Từ những năm 1860 đến những năm 1940, hàng ngàn người chết trong khi làm đường bộ, đường xe lửa, xưởng tàu, và kênh đào. Hàng ngàn người khác chết trong các hầm mỏ, những cánh đồng và kênh mương thuỷ lợi. Những người Việt Nam chết vì đói khát hay kiệt sức trên những đồn điền cao su thường được chôn gần các gốc cao su – một thứ phân bón không tốn tiền – và khi những người nông dân van xin giảm thuế trong lúc đói kém, người Pháp đã từ chối. Đau ốm trong các nhà máy xi măng và xưởng dệt, người công nhân thường bị bỏ mặc cho chết không thuốc men chữa trị, người ta sẽ thay họ bằng người làm công mới, và đó được coi là hiệu quả cao.

Những người Pháp bóc lột không ngừng quất ngọn roi của chủ nghĩa thực dân một cách tàn nhẫn lên lưng người dân Việt Nam… cho đến khi một kẻ mạnh hơn chen chân vào. Quân đội Nhật.

Tháng 9. 1940, sau khi Pháp đầu hàng Phát xít Đức, vị toàn quyền Pháp ở Việt Nam cho phép Nhật đưa 30.000 quân vào tiếp quản các sân bay để sử dụng vào mục đích quân sự chống lại các nước Đồng minh (3) [(Encyclogpedia Britannica, Vietnam, History)]. Khi người nông dân van xin giảm thuế vì hạn hán, người Pháp đã từ chối, còn người Nhật thì nhún vai bởi vì hợp đồng cộng tác giữa họ với người Pháp không dính dáng đến bất cứ chuyện cai trị nào đối với dân bản xứ. “Hãy mang đơn kiện tới chỗ người Pháp,” họ nói vậy với nông dân. Cuối cùng thì hạn hán đã dẫn tới nạn đói làm chết gần hai triệu người Việt Nam trong lúc người Pháp và người Nhật vẫn ăn uống ngon lành. Lượng gạo dư thừa có thể cứu sống những người đang hấp hối đã được đem xuất khẩu sang Nhật, và người Pháp không phản đối. Chừng nào người Nhật còn được sung sướng, quyền cai trị của Pháp vẫn không bị sứt mẻ.

Lúc này có nhiều người khởi nghĩa hơn – những người khởi nghĩa bản xứ – chống lại sự áp bức của cả Pháp lẫn Nhật. Việt Minh là tên gọi của một nhóm dân quân du kích được tổ chức tốt và lập tức được cả nước đứng sau lưng. Đứng đầu nhóm là người sau này trở thành vị lãnh tụ duy nhất từng giành thắng lợi trong một cuộc chiến tranh chống lại người Mỹ: Hồ Chí Minh.

Thế nhưng có một sự thật ít người biết rằng, vào cuối Thế chiến 2, Hồ Chí Minh là bạn đồng minh của nước Mỹ, hoặc ít nhất ông ta đã đi đến chỗ tin rằng như thế. Đầu tiên, Tổng thống Roosevelt tuyên bố mạnh mẽ chống lại chủ nghĩa đế quốc và sự áp bức ở Châu Á, và Hồ Chí Minh tin ông ta. Hãy nhớ rằng, Hồ Chí Minh lúc bấy giờ chưa phải là một người cộng sản thực sự, nhiệt tình của ông là tinh thần ái quốc thuần tuý, là tìm cách lật đổ hoàn toàn nền thống trị đế quốc trên đất nước, giành lại Việt Nam cho người Việt Nam. Ngay cả khi chiến thắng của phe Đồng minh trong thế chiến 2 đã trở nên chắc chắn, thì sự hiện diện của quân Nhật tại Việt Nam cũng gây ra nhiều vấn đề, và các gián điệp Mỹ, Anh được gởi đến để giải quyết. Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh chủ động đánh cắp các kho lương thực của người Nhật đồng thời giải thoát các tù nhân và những phi công Đồng minh bị rớt máy bay. Ngày nước Nhật chính thức đầu hàng sau khi hai thành phố Hiroshima và Nagasaki bị thả bom nguyên tử, vẫn còn 100.000 quân Nhật tại Việt Nam, và chính Hồ Chí Minh là người đã hết lòng giúp đỡ người Mỹ bằng cách chỉ rõ những vị trí trú đóng của quân Nhật cho nhóm OSS của Mỹ, lập tức người Mỹ thông báo điều này cho người Anh là nước chịu trách nhiệm giải giới quân đội Nhật.

Tin tưởng là có sự giúp đỡ của chúng ta, Hồ Chí Minh chính thức tuyên bố đất nước độc lập – nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà – và thậm chí ông đã viết bản tuyên ngôn độc lập dựa trên tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ. Franklin Delano Roosevelt lúc ấy đã chết, Harry S. Truman thay ông làm tổng thống, nhưng khi Hồ Chí Minh yêu cầu Truman đưa ra sự ủng hộ chính thức của Mỹ, ông nhanh chóng nhận ra rằng những phát biểu ủng hộ Việt Nam của Franklin Delano Roosevelt mới đây bây giờ đã không còn được chính quyền mới ở Washington tôn trọng nữa. Truman phớt lờ những yêu cầu khẩn thiết của Hồ Chí Minh, và đã chỉ thị cho Bộ Ngoại Giao Mỹ phải làm mọi cách trong quyền hạn của mình để giúp phục hồi nước Pháp hậu chiến càng hiệu quả càng tốt, kể cả việc cho phép nước Pháp giành lại quyền coi ba nước Lào, Campuchia và Việt Nam là bộ phận của Đế Quốc Thuộc Địa Pháp.

Miệng chửi tay đấm, người Anh đã rất xảo trá tái vũ trang cho quân Nhật và sử dụng họ để lật đổ chính quyền dân chủ mới tuyên bố ở một nưả phía nam của quốc gia này. Đối với Hồ Chí Minh – cũng như đa số dân chúng ủng hộ ông – đây là kịch bản cuối cùng trong trò lật lọng của phương tây. Hồ Chí Minh đã giúp chúng ta rất nhiều trước khi Thế chiến 2 kết thúc – ông đã cứu sống nhiều quân Đồng minh – vậy mà chúng ta đền đáp ông như thế. Chúng ta tái vũ trang chính những kẻ xâm lược mà ông đã giúp chúng ta tước vũ khí, và rồi chúng ta sử dụng vũ lực đó để tìm cách xoá bỏ chính quyền hợp pháp của ông ta. Campuchia và Lào nhượng bộ; họ chấp nhận độc lập “cục bộ” trong “Liên Hiệp Pháp”. Nhưng Hồ Chí Minh không nhượng bộ. Ông chống lại nước Pháp mới hồi phục, và người Pháp cười nhạo. Người Pháp khoác lác nói rằng đội quân của ông Hồ sẽ bị quét sạch trong tám ngày.

Nhưng sau thời gian tám năm, đến năm 1954, người Pháp đã không quét sạch được cái gì khác ngoài sự ngạo mạn của họ. Cho dù có hai tỉ rưỡi đô la do Mỹ viện trợ để tái lập “thuộc địa” ở Việt Nam, người Pháp cũng đành thu xếp đồ đạc trở về nước sau thất bại thảm khốc tại cứ điểm quân sự Điện Biên Phủ. Quân Việt Minh nhanh trí hơn, giỏi chiến lược hơn, và thiện chiến hơn quân đội Pháp trên từng giai đoạn của cuộc chiến. Ông Hồ xẻo quân Pháp ra như xẻo một súc thịt. Đây là một tin chấn động, vì một trong những quốc gia chiến thắng trong Thế chiến 2 đã thất bại trước một đội quân được coi là nhỏ yếu lúc bấy giờ. Nhưng rõ ràng họ đã thất bại. Hồ Chí Minh đã phá huỷ hoàn toàn chủ nghĩa đế quốc của Pháp tại Việt Nam, thực vậy, sự kiện đó nghiêm trọng đến mức một hội nghị đa quốc gia đã được triệu tập dẫn đến Hiệp Định Geneva, theo đó nước Việt Nam sẽ tạm thời chia làm hai, lấy Vĩ tuyền 17 làm ranh giới, cho đến năm 1956 khi một cuộc tổng tuyển cử được tổ chức để quyết định quyền lãnh đạo đất nước sẽ đặt vào tay ai; một uỷ ban kiểm soát quốc tế sẽ giám sát cuộc tổng tuyển cử này và đảm bảo rằng sự thống nhất hai miền Nam và Bắc Việt Nam sẽ diễn ra công bằng, hợp pháp, và trong sạch. Hồ Chí Minh, lúc bấy giờ được coi là người lãnh đạo miền Bắc, phải chấp nhận những điều khoản của hiệp định.
(Còn tiếp)

Vụ Ám Sát Ngô Đình Diệm Và J.F.Kennedy (Triangle of Death)

Tháng 7.2000
BRADLEY S.O’LEARY & L.R.SEYMOUR

Thursday, March 12, 2009

Ngu di truyền, Ngu truyền kiếp, Ngu đến mất cả dân tộc và tổ quốc luôn hén.

CÁI NGU THỨ SÁU CỦA CHÚ THÍM VNCH TỴ NẠN 54/75 LÀ: SAU BAO NHIÊU NĂM THẤT BẠI NHỤC NHÃ Ê CHỀ VẪN CHƯA HIỂU VÀ BIẾT LÀM CÁCH NÀO ĐỂ LẤY ĐƯỢC "CON TIM VÀ KHỐI ÓC" (HEARTS AND MINDS) CỦA ĐẠI ĐA SỐ.

Cái Ngu thứ Sáu của chú thím VNCH tỵ nạn 54/75 là không biết lôi kéo và trọng dụng nhân tài. Có nhân tài vẫn chưa dủ, còn phải có "Con Tim và Khối Óc" (Hearts and Minds) của dại đa số quần chúng. Lịch sữ Trung Hoa có nói muốn tất thắng phải có ba yếu tố, "Nhân Hoà, Địa Lợi, và Thiên Thời" Con Tim và Khối Óc (Hearts and Minds) của đại da số là yếu tố Nhân Hoà trong chiến lược của Trung Hoa đó.


Nếu một tập thể chính trị có "Com Tim và Khối Óc" của quần chúng thì sẽ tất thắng. Chuyện này khỏi phải giải thích nhiều vì nếu được đại da số quần chúng ủng hộ bằng "Con Tim và Khối Óc" thì dĩ nhiên phần thắng chắc nắm trong tay. Xưa quân đội của nhà Trần ba lần đánh bại quân Mông Cổ là nhờ có "Hearts and Minds" của dân chúng. Năm 75 Việt Nam thống nhất và đánh bại quân đội hùng mạnh nhất thế giới, quân dội Hoa Kỳ là nhờ Hearts and Minds. Ngược lại, không có Hearts and Minds sẽ khó lòng thắng, sẽ chắc bị đại bại. Đó là bài học của của chú thím VNCH tỵ nạn 54/75.


THẤT BẠI NẶNG NỀ VỀ NGOẠI GIAO.


Này nhé,

++(1) Chú thím di cư 54/75 lúc nào cũng mơ ước và mở mồm là muốn lật đổ chế độ cộng sản tại Việt Nam.

++(2) Muốn làm được một việc lớn như vậy chú thím phải có một liên hệ ngoại giao chặt chẻ với thế giới.

++(3) Để làm chi? Để được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế cho cái gọi là "chính nghiã quốc gia". Có sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế thì mới có hy vọng được giúp đở. Được cộng đồng thế giới giúp đở thì mới có thể thành công. Vì lý do chú thím quá nghèo đói phải nhờ thế lực bên ngoài mới tồn tại được.

++(4) Một thí dụ điển hình là Chính Quyền Lưu Vong Tây Tạng đại diện bởi Đức Đạt Lai Lạt Ma.

++(5) Đức Đạt Lai Lạt Ma được khắp nơi trên thế giới ủng hộ và đón tiếp nồng hậu mặc cho sự phản đối của Trung Quốc.

Tại sao Đức Đạt Lai Lạt Ma thành công về ngoại giao như vậy???

++(6) Xin thưa ngay rằng là Đức Đạt Lai Lạt Ma THỰC SỰ YÊU THƯƠNG TÂY TẠNG VÀ NGƯỜI CÓ MỘT LÒNG THÀNH cảm hoá được cả thế giới.

Đằng này,

++(7) Chú thím chỉ nói yêu Việt Nam qua cái bảng họng, không có lòng thành. Chú thím GANH GHÉT THÌ NHIỀU, THÙ HẬN VÔ CỚ CAO NHƯ NÚI chỉ lường gạt, biển thủ tiền bạt bỏ tiền vào túi ăn xài cá nhân, là phường ăn giựt.

++(8) Khi không có tiền thì chỉ chửi đổng nhau. Đến khi có chút tiền chú thím tỵ nạn 54/75 cắn xé chửi bới giành giật nhau như lủ chó ghẻ.

++(9) Sự bất tài, dốt nát, và tham lam của chú thím nó lộ ra cả thế giới thấy.

++(10) Làm như vậy ai mà ủng hộ??? Người Việt tị nạn, là cộng đồng của chú thím đấy còn bỏ chạy vắt giò lên cổ huống gì cộng đồng quốc tế.


Vì vậy:

Chú thím VNCH tỵ nạn ngày càng bị xa lánh, chẳng ai đón tiếp giúp đở ngược lại còn làm chuyện dơ bẩn bị cầm tù và bắt bớ. Có chú thím VNCH tỵ nạn nào nào được các lảnh tụ thế giới đón tiếp như Đức Đạt Lai Lạt Ma và thánh Grandhi như ngày xưa không?? THƯA KHÔNG.


Cộng đồng quốc tế khinh như con chó ghẻ vì cái gọi là "lảnh đạo cộng đồng" vừa ngu, vừa tham, vừa dốt, vừa bất tài, và tư cách đạo đức lại không có. Đầu óc thì hẹp hòi, ngu xuẩn thì ai mà đi phí thời gian đón tiếp, huống gì giúp đở cho cái chính nghĩa quốc gia của chú thím chứ.


Này nhé..

Chú thím VNCH tỵ nạn thì quân sự không có, chính trị cũng không, kinh tế thì bù trớt, ngoại giao thì cũng vảnh luôn..Thì đừng nói chuyện chống Cộng và lật đổ chi cho nó mệt... cái gọi là lảnh tụ cộng đồng nên bỏ thì giờ đi học căn bản của giáo dục còn được việc hơn..Thời gian càng trôi qua, chú thím VNCH tỵ nạn biết là mình không có tài "trọc trời, khuyấy nước" như ĐCSVN nên chú thím nằm...chờ xung rụng.. Tức là chờ các nghệ sĩ Việt Nam ở trong nước sang để chú thím có cơ hội đấu tranh rũ nhau xuống đường chửi bới mất dạy. Nó là niềm hy vọng mong manh duy nhất mà chú thím VNCH tỵ nạn 54/75 ngày đêm trông chờ.


Nhưng than ôi...

Ngày càng bị cộng đồng xa lánh, ngay cả đảng cộng hòa của Mỹ cũng ruồng bỏ, bị khinh như con chó ghẻ là bởi vì sự ngu hèn dốt nát cuồng tín mất dạy của chú thím di cư 54/75 đấy, chú thím có biết không vậy???



Làm chính trị mà bị khinh như thế đấy, lấy cái mẹ gì để phục chúng chớ. Dốt mà dóc nghen.


Trai hiền nhất Bắc Cali “Một Con Cầu Tình” Nguyễn Việt Kiều.